Trí Khánh

CÁC TÊN GIỌI THƯỜNG GẶP TRONG VĂN HÓA Á ĐÔNG
Khi chúng ta đọc các trang sách lịch sử, các danh nhân văn hóa, nhà văn hóa, nhà nghiên cứu, trong các hiệu bụt, nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ, nghệ nhân, ca sĩ…
TÊN HÚY là gì?
Tên húy, huý danh, hay tục danh, là một trong những tên gọi của con người trong nền văn hóa Á Đông, được cha mẹ đặt cho từ khi còn nhỏ. Trong các nền văn hóa Á Đông thời phong kiến, có tư tưởng cho rằng tên húy có liên hệ với linh hồn, vì vậy dùng tên húy cần có yêu cầu nhất định cùng cấm kỵ (nguồn Wikipedia).
Húy (hoặc tên húy) là tên thật, tên khai sinh của một người, đặc biệt là vua, hoàng tộc hoặc người có vai vế cao trong dòng họ, mà theo phong tục thời phong kiến, người ta phải kiêng kỵ việc nói đến hoặc viết thẳng tên đó để thể hiện sự tôn kính hoặc tránh phạm húy. Ngày giỗ (kỵ nhật) cũng được gọi là húy nhật.
Nguồn gốc và ý nghĩa:
- Từ thời xa xưa, tập tục kiêng húy xuất phát từ lòng tôn kính đối với vua, tổ tiên, cha mẹ.
- Việc kiêng húy ban đầu chỉ dùng cho người chết, nhưng từ thời nhà Tần trở đi, nó được áp dụng cả cho người sống và người chết.
- Nó đã trở thành một phần quan trọng trong văn hóa Á Đông, đặc biệt là các triều đại quân chủ chuyên chế, với mục đích đề cao các giá trị đạo đức Nho giáo.
Cách kiêng húy:
- Khi gặp chữ húy, người ta không được đọc tròn âm hoặc không được viết thẳng chữ.
- Nếu không may phạm húy, con cháu hoặc người thân sẽ phải gọi chệch đi, tìm một từ đồng nghĩa thay thế, hoặc đổi tên.
- Trong các cuộc gặp gỡ hoặc mừng thọ, người ta phải hỏi tên húy để tránh nói ra những từ phạm húy, gây xúc phạm.
Hậu quả của phạm húy:
- Người vi phạm có thể bị cấm thi cử, đánh phạt, hoặc tù tội.
- Nghiêm trọng hơn, có thể bị tru di tam tộc, cửu tộc.
Phạm húy trong các thời kỳ:
- Thời nhà Lý, việc kiêng húy thể hiện sự cam kết với Nho giáo. Thời này Phật giáo phát triển hơn, nên nhà Lý chưa ép buộc, thể hiện được tính dân chủ trong nhân dân.
- Lệnh kiêng húy đầu tiên ở Việt Nam được ban ra dưới thời Vua Trần Thái Tông.
- Đến triều nhà Nguyễn, việc kiêng húy đã trở thành quốc luật, với số lượng chữ kiêng húy lên đến hàng trăm.
TÊN TỰ là gì?
Tên tự là tên đặt riêng, đặt ra nhằm tránh tên Húy.
TÊN HIỆU là gì?
Tên Hiệu thường do chính mình tự đặt ra, mục đích giọi cho đẹp, nho nhã…
Ngày xưa các bậc Nho sĩ họ thường đặt tên Hiệu cho mình. Sau khi họ chết thì con cháu dựa vào tên hiệu để viết hiệu bụt vào gia phả. Nếu người có học hàm, học vị, vị thế trong xã hội… thì thêm Vị Hiệu.
Ngày nay tên hiệu thường được dùng làm Bút danh trong thơ, văn, báo chí; Nghệ danh; tên Nghệ sĩ; tên Nghệ nhân; tên ca sĩ; bảng hiệu tên các doanh nghiệp, cửa hàng (cửa hiệu), tiệm, shop…
TÊN THỤY là gì?
Tên thụy còn giọi là tên hèm, tên cúng cơm dùng cho người đã chết
HIỆU BỤT là gì?
Hiệu bụt chính là 1 đoạn tiểu sử ngắn gọn nhất sau khi chết, con cháu lập bài vị (linh vị) để ghi nhớ lại sau này dùng cho cúng kính (kiếng), người khác khi họ nghe hoặc đọc hiệu bụt sẽ biết thông tin về người đó.
Nội dung hiệu bụt:
- Hiển: Khảo (cha), tỷ (mẹ), tổ khảo (ông), tổ tỷ (bà), tằng tổ khảo – tằng tổ tỷ (cố ông, cố bà, cụ), cao tổ khảo – cao tổ tỷ (can, kỵ): tính cả đời mình thì đúng là 5 đời, giọi là thờ Gia Tiên tại nhà riêng.
Bản thân mình là đời thứ 5, cha mẹ là đời thứ 4, đến đời thứ 3 tính dưới lên gọi là tổ, khi chết thì người cháu (đã chết) về phụ tổ tức là theo đời của ông bà trở về trước. Vậy ông bà là vị tổ thứ 7, cố (cụ) là vị tổ thứ 6, can (kỵ) là tổ thứ 5.
Tiên tổ khảo – tiên tổ tỷ (bậc trên can, kỵ) tại nhà thờ tổ (từ đường dòng họ) gọi là tổ thứ 4, tổ thứ 3, tổ thứ 2, tổ thứ nhất trong hệ thống thất tổ. Trên tổ thứ nhất (n) trở về vô thủy vô chung giọi là Cửu Huyền.
Tham khảo: trích tập sách THEO DẤU NGƯỜI XƯA TÌM VỀ PHÚC ẤM TỔ TIÊN, Tập 1 Đường về Tiên, sách tôi viết lấy bút danh Lý Quang Khanh.
- Tiền tước: đậu đạt, chức vụ địa vị và tước phong khi đang còn sống.
- Hưởng thọ: lục, thất, bát hoặc cửu tuần (60,70,80 hoặc 90).
- Tên húy: tên chính
- Tên thụy: người có chức thước được triều đình (nhà nước) ban tên thụy.
- Tên hiệu: tên kèm đặt khi chết hoặc biệt hiệu khi còn sống.
- Tên tự: tên chữ đặt khi học hành hoặc sau khi đậu đạt.
Nếu là Tỷ (mẹ, bà hoặc cụ bà) thì tiền tước ghi theo tiền tước của cha, ông hoặc cụ ông; tiếp đó ghi tên họ: Lý, Trần, Lê, Nguyễn, Phạm, v.v… công chính thất, kế thất (vợ kế), … thị hạng nhất, nhì, tam, v.v… cuối cùng đề phu nhân (nhụ nhân) hoặc nhữ nhân linh vị. trong quá trình lập linh vị nếu không có chức tước địa vị gì thì đề 2 chữ cuối “chân linh”. Theo phong tục tổng số chữ phải chia hết cho 4, hoặc chia 4 dư 3, kiêng dư 1, dư 2 (quỷ, cốc, linh, thính: đếm từ đầu đến chữ cuối không trùng với chữ quỷ và cốc.
Như vậy, Trí Khánh đã sơ lược cho quý vị có thể hiểu sơ lược về văn hóa – phong tục của Việt Tộc.
https://lytoc.vn/ xin dẫn bài viết “Phạm húy” – Một thời ám ảnh! tác giả Nguyễn Thanh Tú đang trên báo Công An Nhân Dân.
“Phạm húy” – Một thời ám ảnh!
Thứ Năm, 25/05/2023, 13:56
Ngày xưa giới văn nhân sợ nhất bị “phạm húy” tức khi viết/nói vô tình lặp lại tên vua hay tên anh em họ hàng, lăng tẩm đền đài của vua. Có người vô tình đặt tên con trùng với tên cháu của vua cũng mắc tội… Điều ấy nói lên một tính chất cực kỳ phi dân chủ của xã hội phong kiến xưa.Xin bắt đầu bằng những tên gọi. Tên húy là gì? Là tên cha mẹ đặt cho từ lúc còn nhỏ, tức tên tục, tên khai sinh. Tên tự đặt ra để kiêng gọi tên húy, tên tục. Tên hiệu tự đặt cho mình để gọi cho nhã, cho đẹp. Thường những ai thành danh, tên tuổi, tiếng tăm mới có tên hiệu. Tên thụy còn gọi là tên hèm, tên cúng cơm là tên được đặt cho những người đã chết, thường là vua chúa, quan lại, thầy học… Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên húy là Nguyễn Văn Đạt, tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ…
Vì sao phải kiêng tên húy? Điều này có lý do văn hóa. Người phương Đông xưa quan niệm tên gọi gắn với linh hồn. Ma quỷ rất thích tên đẹp, tên hay nên thấy đứa trẻ nào có tên như thế chúng sẽ bắt. Do vậy các bậc cha mẹ kiêng gọi tên tục của con mà phải đặt một tên khác, tức tên tự để ma quỷ nhầm lẫn. Người ít chữ nghĩa thì gọi tên con quê mùa xấu xí, người biết chữ đặt tên cho khác lạ mà vẫn có ý nghĩa… Dần dần trở thành một tập quán bị nhà nước phong kiến lợi dụng để tăng cường thêm quyền uy.

Một hình phạt “trượng” (đánh bằng gậy) của Trung Quốc cổ xưa!
Đây là những chuyện có trong lịch sử Trung Quốc. Thời vua Chu Nguyên Chương (tức Minh Thái Tổ 1328 -1398) viên quan Hứa Nguyên làm bài biểu tấu ca ngợi triều đình, trong đó có tám chữ “Thể càn pháp khôn, tảo sức thái bình” (Thể chế như trời phép tắc như đất, trau chuốt làm đẹp cảnh thái bình). Nhưng nhà vua lại hiểu hai chữ “pháp khôn” không là phép tắc trời đất mà là “hình phạt cạo trọc đầu” và đọc “Tảo sức thái bình” thành “Tảo thất thái bình”, có nghĩa “sớm sẽ gặp binh đao loạn lạc”. Hứa Nguyên liền bị lôi ra xử tùng xẻo. Đời Thanh, nhà thơ Tử Tuấn chỉ vì viết hai câu thơ: “Minh nguyệt hữu tình hoàn cố ngã/ Thanh phong vô ý bất lưu nhân” (Trăng sáng có tình còn nhìn ta/ Gió mát vô ý không giữ người lại) mà mắc án chém vì bị hiểu “Thanh phong” là ám chỉ nhà Thanh, “minh nguyệt” là ám chỉ triều Minh…
Hầu hết các triều đình phong kiến Trung Quốc đều áp dụng các hình phạt tàn bạo đối với người phạm “quốc húy” tức nói tên hoàng đế, vì thế là mắc “đại tội bất kính”. Theo luật khi viết tên vua phải dùng cách “khuyết bút” tức phải bỏ nét và cách “khiếm trung” tức bên cạnh chữ “vua” không được viết những chữ “hôn” (tối tăm) “sát” (giết)… Nhưng vẫn có chuyện xảy ra và hậu quả rất thảm thương. Năm 1777, một viên quan văn tên Vương Tích Hầu viết tên Càn Long mà không dùng khuyết bút (bỏ nét) nên bị trọng tội “tru di cửu tộc” và tịch biên toàn bộ tài sản… Người xưa gọi đó là “ngục văn tự”, cố mà tránh!
Ở ta, tiểu thuyết “Lều chõng” của Ngô Tất Tố kể chuyện thí sinh Đào Vân Hạc học rất giỏi thi đỗ Hội nguyên nhưng vì phạm húy trong kì thi Đình nên bị giam hai ngày và bị truất khoa cử. Chuyện “phạm húy” này có khi chỉ là chuyện “dùng phải những chữ trùng với tên lăng, tên điện của nhà vua”. Trong tác phẩm có câu nói của ông chủ nhà trọ khi nghe các thí sinh giải thích về “phạm húy”: “-Thôi! Tôi xin lạy cả nón. Phúc tổ nhà tôi, làm sao lúc học dốt quá, đành phải bỏ học đi cày. Nếu như tôi sáng dạ một chút, mà cố theo đuổi để được cắp quyển vào trường với các ngài, thì chắc suốt đời bị tội”. Câu này có sức tố cáo nhà nước phong kiến cực kỳ ích kỷ, rẻ rúng thậm chí thủ tiêu tài năng chỉ vì những lý do không đâu.
Theo sử sách nước ta thì lệnh kiêng húy sớm nhất có ở đời Trần, thời vua Trần Thái Tông năm 1232. Nhà Trần lệnh những ai mang họ Lý phải đổi sang tên họ khác. Lý do là ông tổ nhà Trần tên Trần Lý nên ai mang tên này, họ này là “phạm húy”. Có lẽ đây chỉ là cái cớ, sâu xa hơn, nhà Trần không muốn để một ai trong họ Lý nuối tiếc quá khứ mà có tư tưởng làm phản. Vì nhà Trần vừa “tiếm ngôi” nhà Lý một cách “hòa bình”.
Đến thời vua Lê Thái tổ lệnh kiêng húy được đưa vào “luật” và phổ biến rộng rãi với các loại húy là quốc húy, tên húy, gia tộc húy và dân gian húy. Quốc húy là kiêng tên vua. Thời Lê Trung hưng do kiêng tên vua Lê Trang Tông là Lê Ninh, nên các địa danh có chữ Ninh đều phải đổi (huyện Vĩnh Ninh đổi thành Vĩnh Phúc, tức huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa nay). Vua Lê Thế Tông tên thật là Duy Đàm, nên huyện Thanh Đàm phải đổi thành Thanh Trì gần nghĩa nhau (“trì” là cái ao, “đàm” là cái đầm). Vua Lê Chân Tông tên là Duy Hựu, nên huyện Thuần Hựu phải đổi thành Thuần Lộc, nay là huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa.
Trước thời Lê có dãy núi Tùng ở huyện Thụy Nguyên (nay là huyện Thiệu Hóa), sau này vì kiêng tên húy của chúa Trịnh Tùng mà dãy núi không còn tên nữa. Chúa Trịnh Tạc (1657 – 1682), được vua Lê phong cho tước Tây vương nên một loạt địa danh có chữ Tây đều phải đổi tên. Như huyện Tây Chân xứ Sơn Nam hạ đổi thành huyện Nam Chân. Đến thời Nguyễn đổi thành Nam Trực (“chân” và “trực” cùng nghĩa là ngay thẳng). Sơn Tây đổi thành xứ Đoài. Hồ Tây (Thăng Long) lại gọi là Đoài hồ. Cách đổi này dựa vào một cung trong Bát quái, “Đoài” chỉ hướng Tây.

Văn nhân mắc tội lưu đày!
Luật “dân gian húy” vẫn còn rơi rớt đến giữa thế kỷ XX. Ai đã trên dưới 50 tuổi đều thấy ở nhà quê người ta kiêng đặt tên con trùng với tên cụ kỵ, ông bà, bố mẹ… Thậm chí kiêng đặt tên con cháu trùng tên hàng xóm láng giềng, vì quan niệm khi gọi hay khi chửi con cháu là chửi cụ kỵ, bố mẹ… người ta. Thành ra chuyện chẳng đâu vào đâu mà sinh ra mâu thuẫn, mất đoàn kết, có khi kiện cáo rất vô lối. Kỵ húy trong dân gian được nhiều nơi quy định cụ thể, chi tiết trong “hương ước”, tức lệ làng. Có làng quy định về việc kỵ húy tên thành hoàng. Ai vi phạm sẽ bị phạt…
Đến thời nhà Nguyễn, lệnh kiêng húy còn khắt khe hơn, thể hiện sự mất dân chủ đến dã man. Sĩ tử đi thi mang tâm lý rất nặng nề. “Khinh húy” (phạm húy nhẹ) tức phải kiêng tên cha mẹ chú bác, đền đài, lăng tẩm… của nhà vua. “Trọng húy” là kiêng tên của vua. Ai phạm khinh húy trong bài thi thì bị đóng gông phơi nắng ba ngày, suốt đời bị cấm đi thi. Phạm trọng húy thì bị bỏ tù và thầy dạy học cũng bị phạt vì đã để cho trò phạm lỗi. Ai đang làm quan mà viết văn bản phạm trọng húy cũng bị phạt như giáng cấp, nặng thì tù đày, bị đánh 80 trượng (theo Luật triều Gia Long). Thí sinh Đào Vân Hạc trong “Lều chõng” là phạm vào “khinh húy”. Năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, nhà thơ Cao Bá Quát được cử làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Khi chấm bài thấy một số bài văn hay nhưng phạm húy, tiếc cho người có tài mà chịu thiệt thòi, ông bàn với một vài giám khảo lấy muội đèn làm mực chữa bài thi từ trượt thành đỗ. Vụ việc bị phát giác, ông bị phạt rất nặng…
Hậu quả nặng nề của “phạm húy” không chỉ con người đương thời phải chịu mà còn ảnh hưởng tiêu cực tới ngôn ngữ sau này. Nhất là việc xác định danh từ riêng đích thực trong các văn bản cổ. Vì mỗi triều đại quy định cách “kỵ húy” riêng nên có tên nhân vật lịch sử hay địa danh phải chữa đi chữa lại có khi đến ba bốn lần thành ra có tên nhân vật phải đối chiếu, tra cứu rất nhiều văn bản mà cũng không chính xác.
Ví như một nhân vật nổi tiếng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu là Nguyễn Hữu Kính, do kiêng húy không được gọi thẳng tên nên viết/ đọc trại ra là Cảnh (tức Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh). Đến thời triều Nguyễn, kiêng tên hoàng tử Cảnh, nên viết/ đọc trại một lần nữa từ Kính thành Kiếng. Vì lý do này người Nam bộ gọi (cái) “kính” là “kiếng”, “cung kiếng” thay cho “cung kính”, “kiếng lễ” thay cho “kính lễ” v.v… Điều này lý giải vì sao một nhân vật mà có hai cách viết.
Vì kiêng húy tên vua Tự Đức là “Thì” mà Ngô Thì Nhậm thành Ngô Thời Nhiệm. Kiêng húy tên “Chu”, tức chúa Nguyễn Phúc Chu mà Phan Chu Trinh thành Phan Châu Trinh… Húy kỵ thời Nguyễn được nâng lên thành “Quốc luật”. Vẫn áp dụng lối tránh kỵ húy giống các triều đại bên Trung Quốc như dùng lối “khuyết bút”, “khiếm trung” nên câu chữ văn bản thay đổi, phải thêm nét, bớt nét, đọc chệch âm hay dùng từ đồng nghĩa. Ví như kiêng húy chữ “Tông” (tên húy của vua Thiệu Trị) mà các tên vua thời trước phải đọc chệch âm, Lý Thánh Tông đọc lại là Lý Thánh Tôn… Chỉ là tên gọi thôi nhưng quả thật vô cùng rắc rối, phiền toái, phức tạp!
Tục Kiêng Húy Của Người Việt và Hệ Lụy
Tác giả: Hồ Duy Chúc
Ở Việt Nam, kiêng húy là một truyền thống lâu đời có từ thời nhà Lý vào thế kỷ 11.
Kiêng húy (hay húy kỵ, kị húy hoặc tỵ húy) là việc tránh nói tên một số người, để tỏ ý tôn trọng trong xã hội, của các Triều đại Quân chủ chuyên chế ngày xưa và đã là một phần của xã hội loài người trong nhiều thế kỷ.
Vào thời nhà Lý, việc kiêng húy chủ yếu được thực hiện như một cách thể hiện sự cam kết của một người đối với các nguyên tắc Nho giáo và đề cao các giá trị đạo đức. Nó được coi là một cách để rèn luyện tính kỷ luật tự giác và duy trì trật tự xã hội. Do đó, việc kiêng húy được áp dụng đối với những cá nhân nắm giữ các vị trí quyền lực, chẳng hạn như quan chức chính phủ và học giả.
Những người vi phạm các quy tắc kiêng húy sẽ bị cấm thi cử, đánh phạt, tù tội; cao hơn là bị tru di tam tộc, cửu tộc. Nguy hại hơn nữa là cưỡng bức, làm biến dạng, lệch chuẩn ngôn ngữ Tiếng Việt.
Lệnh kiêng húy đầu tiên, được ban ra tháng 6/1232, đời Vua Trần Thái Tông. Nhà Trần biện lẽ ông Tổ nhà Trần là Trần Lý, nên tất cả những ai có họ, tên Lý đều phải đổi sang họ Nguyễn, nếu ai phạm sẽ bị tru di tam tộc.
Mục đích chính của lệnh này, là để quên đi, làm lu mờ Triều đại nhà Lý. Mặc cho trước đó, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, để lập nên Triều đại nhà Trần.
Kiêng húy một cách toàn diện
Ngày 20/4/1428, sau khi lên ngôi được 5 ngày, vua Lê Thái Tổ đã ban lệnh kiêng húy một cách toàn diện, bao gồm quốc húy, gia tộc kính húy và dân gian húy.
Đến Triều đại 13 đời Vua Nhà Nguyễn (1802 – 1945), việc kiêng húy đã trở thành quốc huý, quốc luật.
Như vậy, từ triều nhà Trần đến triều nhà Nguyễn, hiện đã ghi nhận được 40 lệnh kiêng húy. Riêng triều Nguyễn có tới 22 lệnh, trong đó Vua Thiệu Trị chỉ trong 5 năm, đã ra 8 lệnh.
Theo thống kê có được, triều nhà Nguyễn kiêng húy đã lên tới nhiều nhất là 531 chữ.
Sau đây là vài phác thảo về kiêng húy dưới triều nhà Nguyễn.
Thay đổi niên hiệu các triều vua
Vua Thiệu Trị (1807 – 1847), có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, nên niên hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông… phải đổi thành Lý Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, Lê Thánh Tôn…
Thay đổi tên dòng họ
Vị chúa đầu tiên, trong 9 chúa triều Nguyễn là Nguyễn Hoàng (1525 – 1613), để kiêng húy, họ Hoàng phải đổi thành họ Huỳnh.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1714 – 1765), có hiệu Vũ Vương (Nguyễn Thế Tông Vũ Vương), nên họ Vũ phải đổi thành họ Võ.
Thay đổi tên danh nhân
Vua Tự Đức (1829 – 1883) có tên là Nguyễn Phúc Thì và Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, nên Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), phải đổi thành Ngô Thời Nhiệm.
Hay như, để tránh tên chúa Nguyễn Phúc Chu, tên của Phan Chu Trinh (1872 – 1926), phải đổi thành Phan Châu Trinh…
Thay đổi địa danh
Quý phi Hồ Thị Hoa (mẹ vua Thiệu Trị), kiêng húy, phải đổi trấn/tỉnh Thanh Hoa thành Thanh Hoá, chợ Đông Hoa (Huế) thành chợ Đông Ba, Mộ Hoa (Quảng Ngãi) thành Mộ Đức, Kỳ Hoa (Hà Tĩnh) thành Kỳ Anh, Hoa Khê (Phú Thọ) thành Cẩm Khê…
Chúa Nguyễn Phúc Thái (1649 – 1691), tức chúa Nghĩa (Nguyễn Anh Tông Nghĩa Vương), kiêng húy nên đổi tên Dinh Quảng Nghĩa thành Dinh Quảng Ngãi.
Vua được coi là thiên tử, nên Chùa Thiên Mụ được đổi thành Chùa Linh Mụ, huyện Thiên Lộc (Hà Tĩnh) thành Can Lộc, huyện Thiên Bản (Nam Định) thành Vụ Bản, huyện Thiên Thi (Hưng Yên) thành Ân Thi…
Cái nghiệt ngã nhất của Triều Nguyễn là mỗi vị vua phải kiêng 5 tên: danh tự (tên cha mẹ đặt), ngự danh (tên khi lên làm Vua), niên hiệu (tên Triều đại), thụy hiệu (tên khi chết), miếu hiệu (tên thờ trong Miếu).
Cùng với cả Kiêng húy người thân trong gia tộc, nên Triều Nguyễn có số lượng chữ kiêng húy nhiều nhất. Có thể kể lược thêm: Đỗ/Đậu; Chu/Châu; Phúc/Phước; Sinh/Sanh; Chính/Chánh; Hồng/Hường; Cảnh/Kiểng; Kính/Kiếng; Thái/Thới; Lĩnh/Lãnh; Ánh/Yếng; Hoa/Huê; Hoa/Bông; Thì/Thời; Đường/Đàng; Phụng/Phượng; Chu/Châu; San/ Sơn; Tuyền/Toàn, Chân/Chơn; Đảm/Đởm; Nguyên/Ngươn…
Việc thực thi nghiêm ngặt việc kiêng húy này có lợi ích của nó, vì nó giúp duy trì ý thức trật tự và kỷ luật trong xã hội. Nó cũng phục vụ như một cách để nâng cao địa vị của những người thực hành nó vì được coi là những cá nhân ngay thẳng và có đạo đức. Tuy nhiên, theo năm tháng, việc kiêng húy bắt đầu trở nên cứng nhắc và giáo điều hơn, gây bất an cho những người phải tuân theo các quy tắc của nó.
Một trong những hậu quả quan trọng nhất của việc kiêng húy là áp lực buộc các cá nhân phải tuân theo một tiêu chuẩn hành vi và ngôn ngữ nhất định. Điều này đặc biệt đúng khi nói đến tiếng Việt, vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo. Những người đi chệch khỏi ngôn ngữ tiêu chuẩn bị coi là vi phạm các quy tắc kiêng khem và thường bị xấu hổ hoặc bị trừng phạt vì điều đó.
Hơn nữa, việc kiêng húy cũng dẫn đến việc loại trừ một số nhóm người nhất định, chẳng hạn như phụ nữ và tầng lớp thấp hơn, khỏi việc tham gia vào một số hoạt động nhất định hoặc nắm giữ các vị trí quyền lực. Điều này càng làm kéo dài thêm sự bất bình đẳng xã hội và hạn chế cơ hội cho những nhóm bị thiệt thòi này.
Khi Việt Nam hướng tới một xã hội hiện đại hơn, việc tuân thủ nghiêm ngặt việc kiêng húy bắt đầu giảm dần. Việc kiêng húy không còn được coi là phù hợp hoặc cần thiết trong thời đại đang thay đổi. Tuy nhiên, một số tàn tích của truyền thống này vẫn tồn tại, đặc biệt là trong hệ thống giáo dục nơi học sinh phải tuân thủ các tiêu chuẩn nhất định về hành vi và ngôn ngữ.
Trong những năm gần đây, đã có những lời kêu gọi đánh giá lại việc thực hành kiêng húy và hậu quả của nó. Nhiều ý kiến cho rằng đó là một truyền thống đã lỗi thời, áp bức, cần phải điều chỉnh cho phù hợp với những giá trị và quy luật hiện đại của xã hội. Điều này bao gồm việc cho phép các cá nhân tự do thể hiện bản thân và sử dụng ngôn từ theo cách tự nhiên đối với họ mà không sợ bị trừng phạt vì đi chệch khỏi tiêu chuẩn.
Từ đó, chúng ta cần nhận thức được rằng kiêng húy là một tàn dư xưa cũ có một lịch sử lâu dài và phức tạp, mang nặng quan niệm duy tâm. Mặc dù nó có thể đã phục vụ một mục đích nào đó trong quá khứ nhưng điều quan trọng là phải đánh giá lại sự phù hợp của nó trong thời đại ngày nay và thực hiện những điều chỉnh cần thiết để đảm bảo rằng nó không cản trở sự tiến bộ của xã hội.
Vì thế, trong thời đại ngày nay, cần phải có những điều chỉnh, những sử dụng, vận dụng hợp lý, để phù hợp với quy luật vận động chính chuyên của đời sống. Việc kiêng húy không nên là gánh nặng hay nguồn gốc của sự bất an, mà là sự lựa chọn cá nhân được tôn trọng và quý trọng./.