Tu là gì? Thiền là gì? Pháp? Thiền sư Lý Quang Khanh

TU HỌC & TU SỬA

Từ ngày xưa, Từ thời Vua Hùng thì Phật Pháp đã du nhập vào nước ta trước khi du nhập vào nước Tàu. Thời đó, có con gái của Vua Hùng chi thứ 18 là Mị Nương Tiên Dung và con rể là Chử Đồng Tử (hai vợ chồng đồng tu tập (cư sĩ tại nhà, phước huệ song tu), sống ở thế kỷ thứ IV-III TCN (vào khoảng năm 300 trước Tây lịch, thời Hùng Duệ Vương), đến Thế kỷ thứ 3 (sau tây lịch) thì có Thiền sư Khương Tăng Hội (?-280) có cha là người bắc Ấn và mẹ là người Việt ở Giao Châu, cha mẹ mất sớm khi ông mới mười tuổi, ông đi tu tại Trung tâm Phật Giáo vùng Luy Lâu (Luy Lâu Thuận Thành là trung tâm văn hóa vùng Kinh Bắc). Ngài có cha là người Ấn nên ít nhiều cũng ảnh hưởng văn hóa tính ngưỡng của người Ấn. Thiền sư đã thông thạo kinh điển ngôn ngữ Phạn và Hán Tạng, tinh thông Nho Giáo, Lão Giáo và văn hóa tín ngưỡng cổ truyền của người Việt. Thiền sư cũng là Sơ Tổ của Thiền Tông Việt Nam. Từ đây Thiền Tông phát triển rất mạnh mẽ cho đến thời Lý – Trần. Từ Luy Lâu ngài đã sang Trung Hoa để truyền Phật Pháp.

Từ thời nhà Lý nước Đại Việt trở về trước có các vị thiền sư: Khương Tăng Hội, Lý Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quý An, Thiền Ông, Lý Vạn Hạnh, Lý Khánh Văn… Trong đó có đức vua Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là con của Hiển Khánh Vương, cháu của Lý Khuê (Lý Lãng Công) học trò của thiền sư Lý Vạn Hạnh và Lý Khánh Văn; …

Đến thời nhà Nhà Trần nước Đại Việt có:  Trần Tung (1230 – 1291), đạo hiệu Tuệ Trung, thường gọi Tuệ Trung Thượng sĩ, con trai Trần Liễu (Thế kỷ XIII), anh ruột Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1232-1300), Dòng Thiền Trúc Lâm do Thượng hoàng-thiền sư Trần Nhân Tông (1258-1308), pháp-danh Điều-Ngự Giác-Hoàng khởi lập là “Tổ Thứ Nhất”. “Tổ Thứ Hai” là thiền-sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương (1284-1330), soạn-giả bộ sách Thạch thất mị ngữ (石室寐語). “Tổ Thứ Ba” là thiền-sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254-1334). Đến thời nhà hậu Lê trở về sau thì bị ảnh hưởng mạnh văn hóa của phương bắc và phương tây.

          Người Việt chúng ta từ xa xưa, trước khi Phật Giáo du nhập vào Việt Nam thì các vị cư sĩ chủ yếu là Tu Tiên (Đạo Tiên – Lão Giáo) – Luyện Khí (vì Kinh Dịch, âm dương, ngũ hành… là của người Việt). Tu Tiên và Tu Thiền cũng chỉ là một pháp mà thôi. Thế mới có câu “Nhất điểm tám vạn thù, tám vạn thù quy nhất điểm”.

          Trải qua nhiều năm quy y ở Chùa, thỉnh một số sách kinh về đọc và suy ngẫm. Đồng thời có cơ duyên học được Đạo Pháp của thầy tổ Bạch Quang, thầy Bạch Hiệp, thầy Bạch Hòa Ka và thầy Bạch Thông đã truyền dạy cho tôi hiểu biết sơ lược về Kinh Dịch…. Cộng với vốn kiến thức lịch sử, nền giáo dục của gia đình nên từ những trải nghiệm đó mà tôi mới hiểu sâu hơn về Tu Thiền – Luyện Khí.

I./ TU LÀ GÌ?

Vậy “Tu” có nghĩa là gì? Lý Quang Khanh  xin vắn tắt sơ lược như sau:

Theo từ điển Hán Nôm:

  1. Tu là từ viết tắt của từ “Tu-đa-la” dịch từ âm tiếng Phạn, nghĩa là Kinh. Đem những lời của đức Phật chép lại thành sách, giọi là Kinh. Sách Kinh là đuốc rọi đàng (đường), Chúng ta nương nhờ cái “Pháp” này làm phương tiện giúp cho mình tự thay đổi từ cái chưa tốt chưa hay thành cái tốt hơn hay hơn như tu thân, sửa mình, tu đức, sửa đức…
  2. Danh từ: Tu là chỉ người có đức hạnh, tài năng.
  3. Động từ: Tu là trang điểm, trang sức; sửa chữa, chỉnh trị; xây dựng, kiến tạo; hàm dưỡng, rèn luyện, học tập, nghiên cứu, viết, soạn, trứ thuật (viết lịch sử); đặc chỉ tu hành (học Phật, học Đạo, làm việc thiện tích đức…); noi theo, tuân theo, thuận theo; gọt, tỉa, cắt.
  4. Tính từ: Tu là dài, cao, xa (nói về không gian); lâu, dài (nói về thời gian); tốt, đẹp; đều, có ngay ngắn, mạch lạc.
  5. Tu gồm có: Tu học (hiểu biết về lý thuyết, giúp tăng trưởng tri thức…), Tu sửa (thực hành khi hiểu về lý thuyết, sửa chữa, bổ sung những gì còn thiếu, loại bỏ những gì không cần thiết, làm cho thân thể được tráng kiện ít, tránh bệnh tật…), Tu luyện (Luyện tập thường xuyên cho đến khi nhuần nhuyễn, thành thục thì mới phát huy được công lực, là phương pháp tu tâm và thân, làm cho huệ phát triển, thân đuổi được bệnh tật, tâm khỏe mạnh an lạc…).

Ngoài ra, Tu còn được hiểu như sau:

  1. Tu có nghĩa là Tù, chúng ta tự đưa mình vào khuôn phép hay còn gọi là “giới”, là cái đầu tiên khi bước vào tu hành hoặc tu luyện. Chúng ta giữ được “Giới” thì mới tiến tới Định”, có giới có định thì mới phát “Huệ”. Còn nói thêm về “Tù” thì tôi xin không tiện nói ra ở đây, có dịp có cơ duyên thì tôi sẽ kể về câu chuyện lịch sử liên quan đến việc quảng bá và phát triển Đạo Phật tại Trung Hoa.

Ví dụ: Đối với người Tu tại nhà (Cư sĩ tại gia) theo Giáo Pháp của Đạo Phật phải giữ 5 giới: Không sát sanh; Không trộm cắp; Không nói dối; Không tà dâm; Không say rượu.

  • Tu có nghĩa là Tụ: đối với người luyện khí (Tu Tiên) thì cái kết quả cuối cùng là tụ được tam bửu phẩm “Tinh – Khí – Thần”. Người tu thiền cũng vậy, sau thời gian thiền chúng ta hội tụ được cái gì?

Tóm lại, nếu chúng ta làm được các vấn đề trên thì chúng ta sẽ đắc thành chánh quả ngay ở cõi phàm trần này. Bởi vì Tiên, Phật (Bụt) – Bồ Tát – Thánh – Thần cũng chỉ là giả danh mà thôi, không có thật. Đó chính là cảnh giới mà ta đạt được mà thôi.

Bạch Hòa Khanh xin mạo phạm chia sẻ sơ lược về chữ Thiền như sau:

II./ THIỀN là gì?

+ THIỀN được viết bằng tiếng Việt là T+H+IÊN+dấu huyền.

+ Nếu ta chiết bỏ dấu huyền thì THIỀN = THIÊN, đưa con người chúng ta hòa cùng với thiên nhiên, hòa cùng vũ trụ và vạn vật, nó tương đồng với Đạo Tiên, Người Việt ngày nay chỉ còn duy trì Đạo Tiên được qua việc Thờ cúng Tổ Tiên (thờ gia tiên ông bà) còn cái gốc Tu Luyện Khí thì ít người học.  Hòa Khí Sinh Tài (cân bằng Âm Dương).

+ Nếu ta chiết bỏ chữ H + dấu huyền thì THIỀN = TIÊN, Tu làm sao cho mình đặng được cõi Tiên ngay tại trần gian này, đừng có mong chờ sau khi chết mới thành Tiên – thành Thánh – thành Phật. Tu làm sao cho “Thân” chúng ta và “Tâm” chúng ta được thọ hưởng cảnh an vui nơi trần thế, người xưa có câu “Nhàn du Tiên cảnh”, Huỳnh vàng trung cảnh chốn bồng lai…

+ Nếu ta chiết bỏ dấu huyền và thêm dấu nặng thì thành chữ THIỆN, tức là hướng chúng ta theo theo con đường “Lương Thiện”, hay còn giọi là “người Lương” không theo tôn giáo nào cả. Như vậy, quý vị sẽ phân biệt câu “Bên Lương, bên Giáo” là thế nào rồi. Để làm được những việc thiện lành thì phải tạo chữ “Nhân” và Nhân chính là gốc của văn hóa Việt, Bình Ngô Đại cáo của cụ Nguyễn Trãi có câu: “Việc Nhân nghĩa cuốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bão, như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xây nền văn hiến đã lâu, núi non bờ cõi đã chia, phong tục bắc nam cũng khác”. chính vì thế mà văn hóa Việt đã ăn sâu vào Thiền sư Khương Tăng Hội và chính Ngài đã khẳng định sự hiện diện Phật Giáo Việt Nam, Thiền học Phật Giáo Việt Nam có trước Phật Giáo Trung Quốc và Thiền học Trung Quốc gần ba thế kỷ. Điều này đã có bao nhiêu người ngộ nhận và lầm tưởng rằng Phật Giáo Việt Nam được truyền vào từ Phật Giáo Trung Quốc và chịu ảnh hưởng của nền văn hóa này. Nhưng không, trên thực tế Phật Giáo Việt Nam được truyền thừa trực tiếp từ Ấn Độ qua những thương buôn, trên các con thuyền như đã nói ở trên. Kể từ thời hậu Lê về sau thì mới ảnh hưởng nặng bởi Phật Giáo Đại Thừa và phong tục cúng bái (Thọ Mai Gia Lễ) của Trung Quốc. Tác phẩm Thọ Mai Gia Lễ được biên soạn bởi Tiến sĩ Hồ Sĩ Tân (hiệu Thọ Mai) vào thế kỷ 18, đúc kết các phong tục dân gian Việt Nam và Trung Quốc để hướng dẫn cách thực hiện nghi lễ thờ cúng, hiếu thảo. Nhất là phần lễ tang chịu ảnh hưởng văn hóa cúng tế Trung Hoa, chủ yếu dùng các điển tích của bên Tàu. Ngày nay nhiều phần đã được thay đổi và điều chỉnh cho phù hợp với xã hội hiện đại.

+  Nếu ta chiết bỏ dấu huyền và thêm dấu sắc thì thành chữ THIẾN, Thiến có nghĩa là cắt bỏ đi, tôi chỉ nói sơ như sau: khi Thiền thì chúng ta loại bỏ (cắt bỏ, buông bỏ) đi tất cả phiền não, phiền muộn, ma lực, không tham – sân – si… làm chủ được Thân – Ý thì lúc này Huệ sẽ phát triển (phát Huệ). Để làm được việc này thì chúng ta phải kết hợp Tu Thiền – Luyện Khí, luyện Khí trước để thanh lọc bộ đầu, thanh lọc cơ thể (cơ thể học) sau đó mới đi vào con đường Thiền định.

+ Nói về THIỀN thì còn nhiều lắm…

III. PHÁP LÀ GÌ

Đầu tiên chúng ta phải tìm hiểu chữ “Pháp” là gì?

Chữ Pháp trong đạo Phật là र्म dharma. Phật giáo vốn có tư tưởng là thiện pháp nhưng nói rộng hơn thì cái phiền não, cái ác, khổ đau cũng là Pháp. Pháp chính là những quy luật của tự nhiên. Quy luật ấy được thể hiện bằng các sự vật hiện tượng nhưng cũng có lúc nó lại không thể hiển ra như những luân lý, phải tổng hợp lại mới nhận thức được. “Pháp” thường chỉ các giáo lý và nguyên tắc mà Đức Phật đã giảng dạy. Đây là hướng dẫn để giúp con người hiểu rõ về bản chất của sự tồn tại, khổ đau, và con đường giải thoát.

Đức Phật có Pháp “Kinh Chuyển Pháp Luân”, chỉ rõ Tứ niệm xứ (tứ thiền): Thân – Thọ – Tâm – Pháp. Thân chính là “Sắc”, là cái hữu hình, là cái có. Thọ – Tâm – Pháp là “Danh” là cái vô hình, là cái không. Dùng cái hữu hình (Thân) nuôi cái vô hình, luyện cho thân và tâm thì cái Huệ mới tăng trưởng và phát triển.

Chữ Pháp trong tiếng Hán là 法, 琺 mang ý nghĩa là “pháp luật, phương pháp, tiêu chuẩn, mẫu mực” hoặc “Phật pháp, đạo lý nhà Phật. Pháp cũng là men một nguyên liệu dùng để mạ đồ cho đẹp, khỏi rỉ; chỉ phép tắc, khuôn phép, khuôn mẫu…

Chữ “Pháp” trong Pháp môn: “Pháp Luân Thường Chuyển” viết bằng chữ Nôm là  gồm:

+ 3 điểm  : là tam bửu phẩm trong cơ thể tức là Tinh – Khí – Thần.

+ Khứ  : đi, về, đi các nơi, các chỗ… nghĩa là đưa hơi thở đi các nơi trong cơ thể để làm cho Tinh Khí Thần sáng lên.

Tất cả sẽ có trong cuốn sách này như:

. Sáu pháp tu thiền (Lục diệu môn thiền), Pháp là gì?

. Tứ điệu đế, bát chánh đạo, tứ niệm xứ

. Thập nhị nhân duyên (12 nhân duyên)

. Các bài học về tu luyện, bài thực hành căn bản cho người tại gia…

Trích trong sách: THEO DẤU NGƯỜI XƯA TÌM VỀ PHÚC ẤM TỔ TIÊN

Tập 2: THIỀN VIỆT ẤN
Pháp tu tập tại gia dành cho người cư sĩ

Tác giả biên soạn: Lý Quang Khanh (Nguyễn Quang Khanh)

Hiệu: Bạch Hòa Khanh; Pháp danh: Trí Khánh

Quý vị nếu đăng lại bài viết phải ghi rõ tác giả và nguồn: https://lytoc.vn/

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *