Hồi ký phần 2: Xứ Nghệ nơi chốn dung thân, Theo dấu người xưa tìm về Thăng Long – Cổ Pháp.
Tác giả: nghệ nhân Lý Quang Khanh (tên thật Nguyễn Quang Khanh)

Sau ngày giỗ thủy tổ Nguyễn Quang Hiển, húy là Lý Hoằng mất ngày 19 tháng giêng, dòng họ Nguyễn Quang gốc Lý, cha tôi và tôi cùng anh họ Nguyễn Quang Đông, chú Nguyễn Hữu Thắm lên đường từ Thanh Chương, đi lên Đô Lương nơi có Đền Quả Sơn thờ Hoàng tử Lý Nhật Quang (Uy Minh vương) để ra Hà Nội. Chuyến xe lăn bánh trong đêm, bỏ lại sau lưng những con đường quyen thuộc, trong tôi dâng một niềm háu hức khó tả. Cha Nguyễn Quang Hiếu đã nhiều lần ra Hà Nội, nhưng đi chỉ lo công việc rồi về, còn tôi thì chưa một lần ra Hà Nội. Trong tiết trời se lạnh của mùa xuân, ngồi trên xe cứ nhìn mãi, nghĩ về chặng đường dài đang mở ra trước mắt.
Cụ tổ Lý Nhật Quang, húy là Lý Hoảng ông là hoàng tử thứ tám của vua Lý Thái Tổ có mẹ là Linh Hiển Hoàng Hậu (con gái của vua Lê Đại Hành và Hoàng hậu Dương Vân Nga). Ông được nhân dân vùng Nghệ Tĩnh tôn làm bậc Thánh và lập đền thờ phụng nhiều nơi. Năm 1041 Lý Thái Tông (Lý Phật Mã, anh trai cùng mẹ) phong ông làm Tri châu Nghệ An, tước hiệu là Uy Minh hầu, sau được phong lên tước Vương. Nghệ An (bao gồm cả Hà Tĩnh ngày nay) là vùng biên ải (vùng biên viễn) phía nam của nước Đại Việt. Ngài ở lại Nghệ An sinh con cháu (hậu duệ) và phát triển vùng đất này. Dẫu lịch sử đã trải qua bao thăng trầm, biến cố. Hậu duệ của cụ Lý Nhật Quang đã phải thay tên đổi họ (Họ Nguyễn) để tồn tại, sau biến cố truy sát con cháu Nhà Lý của Trần Thủ Độ. Ngày xưa, người họ Lý cũng đã bị truy sát từ thời tổ Lý Lãng Công – Lý Khuê (trong biến loạn mười hai sứ quân thế kỷ thứ 10), con cháu của Lý Lãng Công cũng phải chạy vào rừng Báng để trốn quan quân truy sát, nhiều người thì đi tu như Thiền sư Thiền Ông, Thiền sư Lý Vạn Hạnh, Thiền sư Lý Khánh Văn… nhờ vậy mà nuôi dưỡng được hậu duệ Lý Công Uẩn về sau xây dựng vương triều Nhà Lý (hậu Lý), vương triều Lý từng kiến lập nền độc lập tự chủ, nền văn minh và thể hiện bản sắc dân tộc Việt.
Cuối thời Nhà Trần một số con cháu nhà Lý từ Nghệ An, Thanh Hóa và nhiều nơi khác về lại Cổ Pháp định cư để lo hương khói cho các vị Tiên Đế (Lý Bát Đế). Có người thì đã nổi danh như Lý Tử Tấn. Thương thay giặc Minh kéo vào xâm lược Đại Việt, truy sát người dân Cổ Pháp – Đình Bảng trong đó có hậu duệ Nhà Lý (tuy đã đổi sang họ khác), một lần nữa con cháu lại phải rút vào Thanh Hóa, Nghệ An… Vì thế mà hậu duệ của Hoàng tử Lý Nhật Quang không dám để lộ tông tích dòng họ gốc của mình. Ngày nay con cháu của Hoàng tử Lý Nhật Quang đã bắt đầu hành trình tìm về nguộn cội…
Ra đến Hòa Lạc đoàn từ Nghệ An đã được vợ chồng Anh Nguyễn Hữu Nghĩa và chị Nguyễn Minh Nguyệt đón tiếp nồng hậu tại tư gia. Anh Hữu trước làm phóng viên của Đài Tiếng nói Việt Nam – VOV, chị Nguyệt làm ở Bộ Thương binh và xã hội. Anh chị xin về hưu sớm để tranh thủ lúc đang còn mạnh khỏe lo phụng sự tổ tiên. Vợ chồng anh đã dẫn đoàn vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và tham quan nơi Bác ở và làm việc. Ra đến Thăng Long, tôi không thể bỏ qua Chùa một cột, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, một trong những dấu tích của Kinh thành Thăng Long xưa, nơi mà Tổ Tiên đã chọn làm Kinh đô của Đại Việt. Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam cũng là nơi cụ Nguyễn Tuấn Thăng (đời thứ 8 Họ Nguyễn Quang) thuộc đời thứ 9 của cụ tổ Lý Công hầu (Lý Lữ), ông làm “Tu Nghiệp Đường Giám Sinh”. Hệ thống bia tiến sĩ, biểu tượng hiếu học và tri thức.

Tại Văn Miếu hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ, khắc tên, quê quán của khoa thi tiến sĩ từ năm 1442 đến 1779, trải qua các triều đại Lê sơ, Mạc và Lê trung hưng. Bước vào khu bia Tiến sĩ, tôi đi đi lại lại, nhìn chữ khắc trên đá. Anh Nghĩa dẫn đoàn dừng lại trước bia của cụ Nguyễn Tiến Tài, cụ là hậu duệ đời thứ 7 của ngài Thủy tổ Hầu thí thân Lý Lữ, lòng tôi rộn lên niềm tự hào “Được đứng trước bia tiến sĩ ở Văn Miếu, tôi cảm nhận rõ hơn câu nói ‘Hiền tài là nguyên khí quốc gia’. Tôi tự nhủ: ông cha đã đỗ đạt, làm rạng danh dòng họ, con cháu hôm nay càng phải gắng sức học hành, sống cho xứng đáng.
Xe lăn bánh dạo quanh Hà Nội để tiến ra ngoại thành, nơi đó có anh Nguyễn Tiến Sỹ từ trong thành phố Hồ Chí Minh ra chờ sẵn. Thế là đoàn chúng tôi đã hội đủ cả ba chi họ Nguyễn Tiến, Nguyễn Quang và Nguyễn Hữu. Đoàn gồm 7 người: anh Nguyễn Hữu Nghĩa (trưởng đoàn), chị Nguyễn Minh Nguyệt, chú Nguyễn Hữu Thắm, anh Nguyễn Tiến Sỹ, anh Nguyễn Quang Đông, cha tôi Nguyễn Quang Hiếu và tôi là Nguyễn Quang Khanh. Anh Sỹ đã mời đoàn đi ăn trưa và để chuẩn bị cho chuyến hành trình tiếp theo…
Rời Thăng Long về Cổ Pháp dừng chân tại Đền Đô – Đình Đình Bảng
Cuối hành trình trong buổi chiều xuân nắng đẹp trời se lạnh, đoàn chúng tôi về với vùng đất Cổ Pháp – Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh nơi linh thiêng gắn liền với sự khởi đầu của vương triều Lý – dòng họ tổ tiên của chúng tôi. Đền Đô – Nơi thờ tám vị vua triều Lý. Đền Đô được xây dựng từ năm 1010, ngay khi đức vua Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, và đến nay vẫn là trung tâm tâm linh quan trọng của vùng Kinh Bắc (Luy Lâu, Thuận Thành). Ngôi đền uy nghiêm thờ tám vị vua nhà Lý – những vị vua đã đưa đất nước vào thời kỳ hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử Đại Việt. Bước qua cổng tam quan, tôi (nghệ nhân Lý Quang Khanh) như được sống lại trong bầu không khí thiêng liêng của lịch sử ngàn năm. Tôi dâng nén hương thành kính trước sân rồng, phía trong đền là ngai rồng của các Tiên Đế, bày tỏ tấm lòng tri ân với tổ tiên đã dựng xây nền móng độc lập, mở mang văn hiến.

Trong buổi chiều ta, sau khi đoàn dâng hương xong. Chúng tôi dạo quanh Đền Đô trong không khí nắng chiều se lạnh, xen kẽ âm thanh vang vọng của câu ca Quan Họ từ các liền anh liền chị. Chị Nguyệt vào xin ít lộc của tổ tiên, còn tôi cứ muốn ở nơi này thật lâu hơn để cảm nhận mạch nguồn đang chạy trong từng hơi thở. Anh Nghĩa nhìn lên đồng đồ đã báo hơn 17 giờ chiều rồi, lẹ chân ra Đình Đình Bảng may còn kịp, chỉ sợ ban quản lý của Đình họ đóng cửa. Chúng tôi vừa đi bộ tung tăng trên con đường nhựa hướng về Đình, nhìn xung quanh dòng sông Tiêu Tương không còn chảy nữa. Trước mắt là một ngôi đình to, bề thế, có lẽ là đẹp bậc nhất Việt Nam, với những mái dao vuốt cong trông uy nghi và mang đậm chất văn hóa Việt tộc. Chúng tôi vào đình tham quan và dâng hương tại Đình, tôi thì vừa đi vừa ngắm từ cột, kèo, các họa tiết của Đình… mà không còn để ý đến những người xung quanh. Bất chợt tôi thấy một bô lão, hình như là bác đang theo dõi tôi? Khi tỉnh thức thấy bác đã ở sát bên mình, tôi vội hỏi “thưa bác! Con từ miền nam ra ạ, bác cho con hỏi ở mảnh đất này có còn con cháu họ Lý không? Bác nhìn tôi như muốn dò xét, sau cùng bác nói chúng tôi ở đây đều là con cháu hậu duệ nhà Lý cả!”. Trong tâm tôi rất vui sướng, thưa bác lát nữa cho chúng con gặp mặt và thưa chuyện ạ!
Tại Đình Đình Bảng, tôi có dịp đứng trò chuyện với các bô lão trong làng. Trong gian nhà cổ, tiếng gió thổi qua mái ngói, tiếng chim ríu rít, các cháu thiếu nhi, nhi đồng đang chơi ở ngoài sân, tôi lặng nghe các cụ kể chuyện. Nhờ vậy, tôi mới hiểu rõ hơn những thăng trầm mà đất này và con cháu họ Lý đã đi qua. Một điều đặc biệt là không hiểu hôm nay hơn 17 giờ 30 rồi mà các cụ vẫn chưa về, các cụ đang lo sổ sách cho Đình.
Chuyến đi không chỉ là hành trình tâm linh, mà còn là một cuộc tìm hiểu lịch sử sống động. Từ việc dâng hương tưởng niệm trước các vị tiên tổ, đến những giờ phút lắng nghe lời truyền dạy của các bậc trưởng lão, tôi Nguyễn Quang Khanh (Nghệ nhân Lý Quang Khanh) như tìm thấy sợi dây vô hình kết nối mình với cội rễ hàng ngàn năm trước. Đối với tôi, hành trình mùa xuân năm 2024 về Cổ Pháp, Từ Sơn không chỉ mang ý nghĩa “tìm về gốc” mà còn là dịp để khẳng định bản sắc, củng cố niềm tin vào sự trường tồn của truyền thống họ tộc. Đó cũng là chứng minh cho chân lý giản dị nhưng sâu sắc: hiểu về tổ tiên chính là hiểu thêm về chính mình, để sống xứng đáng hơn với di sản cha ông để lại.
Các cụ bô lão trong ban quản lý di tích Đình Đình Bảng: bác Nguyễn Danh Mã (trưởng ban), Nguyễn Tiến Bình (phó ban), Bác Nguyễn Tiến Hoàng, cô Nguyễn Thị Oanh, bác Nguyễn Tiến Đạo. Bác Nguyễn Danh Mã trầm ngâm kể lại “Đình Bảng đã xẩy ra nhiều biến cố, trong đó năm 1400-1418 quân Minh sang xâm lược, nhân dân Đình Bảng đã vùng lên chống giặc. Cuộc kháng cự quyết liệt ấy khiến cả làng phải gánh chịu sự trả thù tàn khốc. Người bị giết, người phải chạy trốn. Có kẻ lưu lạc vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, có người tha hương ra nước ngoài. Dân làng lại thêm một lần nữa ly tán.
Sau cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn – Lê Lợi dành được độc lập cho dân tộc. Lê Lợi ra chiếu chỉ dân các nơi thì quay về lại nơi ấy để xây dựng quê hương đất nước. Lúc đó có sáu ông lên Đồng Nguyên, Cẩm Giang, rồi đi tứ tung quay về xây dựng lại ngôi làng Đình Bảng của chúng tôi. Khi sáu ông này mất, dân làng gọi là sáu cụ tổ thờ hai bên đại diện sáu dòng họ: Ngô – Đỗ – Đặng và Nguyễn – Trần – Lê. Lúc đầu hơn 140 người, sau đó được hơn 200 người về đây xây dựng lại quê hương Đình Bảng vào thế kỷ 15 năm 1428. Nơi đây ngày xưa là châu Cổ Pháp, một trong 3 châu cổ nhất miền bắc bào gồm Cổ Loa – Cổ Pháp – Cổ Bi (thuộc Gia Lâm). Ba ông Thành Hoàng này thờ riêng tại một ngôi miếu ngoài bờ sông, sau khi làm xong xin phép rước 3 cụ vào đây thờ phụng. Ba vị đó là: Cao Sơn Đại Vương (Thần núi), Thủy Bá Đại Vương (Thần sông) và Bạch Lệ Đại Vương (Thần nông), không có nơi nào thờ 3 vị này cả.
Các bác còn kể lại xưa kia: Khi nhà Trần lên ngôi, vùng đất Cổ Pháp – nơi phát tích của triều Lý – bị đổi tên thành Đình Bảng. Con cháu họ Lý khi ấy không chỉ bị truy diệt, mà còn bị cấm không cho ra làm quan. Nhiều dòng phải đổi sang họ Nguyễn, hoặc khoác lên mình họ khác để giữ lấy sinh mạng và tiếp tục duy trì huyết mạch.

Bác Danh Mã tự hào kể tiếp “Cụ xây dựng ngôi đình Đình Bảng này là cụ tổ của chúng tôi. Cụ Nguyễn Thạc Lượng gốc họ Lý, toàn bộ gỗ lim cụ lấy từ Thanh Hóa mang về theo đường sông”.
Nghe những lời kể ấy, tôi bỗng thấy cổ họng nghẹn lại. Đằng sau những biến động lịch sử là bao máu và nước mắt của tổ tiên. Nhưng cũng chính trong sự dữ dội đó, tôi nhận ra sức sống mãnh liệt của dòng họ. Bị truy diệt, bị đổi họ, bị buộc phải ly tán… nhưng mạch nguồn vẫn chưa bao giờ đứt. Nó vẫn truyền lại, để tôi hôm nay còn có cơ hội ngồi đây lẵng nghe các cụ kể chuyện và thắp nén hương tưởng niệm.
Đó không chỉ là hành trình của đôi chân, mà còn là hành trình của trái tim, nơi tôi tìm lại sợi dây vô hình nối liền bản thân với tổ tiên ngàn năm. Trở về đây, tôi thấy mình nhỏ bé trước lịch sử nhưng cũng đầy sức mạnh. Bởi tổ tiên luôn dõi theo, nhắc ta sống cho trọn nghĩa với dòng họ, với đất nước.
Thời gian đã về tối, chú Thắm đã dẫn đoàn về khu đô thị Ecopark (Hưng Yên), ghé chơi nhà con trai của chú và chú mời cả đoàn ăn tối, một bữa cơm đại đoàn kết của 3 chi họ tộc hậu duệ của cụ Lý Công (hầu thí thân Lý Lữ). Chú Thắm ở lại chơi với con cháu, vợ chồng anh Nghĩa về lại Hòa Lạc, anh Sỹ về cơ quan, anh Đông cũng về thăm cháu đang học đại học tại Hà Nội. Sau bữa cơm tối tôi, cha tôi cùng tài xế lăn bánh trong đêm để ra Thái Nguyên thăm ông chú, cha tôi gọi là chú ruột Nguyễn Quang Đống con út của cụ Nguyễn Quang Châu (hiệu là Minh Châu), ông là em trai út của ông nội tôi. Ông công tác tại phòng tài chính tỉnh Thái Nguyên và định cư ở đây. Bữa cơm trưa cùng đại gia đình ông Đống xong, chúng tôi quay xe về lại Hà Nội, rồi cùng anh Đông về quê nhà Nghệ An trong đêm. Chuyến đi khép lại, nhưng cũng mở ra một hành trình mới – hành trình tiếp nối truyền thống, lan tỏa tinh hoa, để ngọn lửa tổ tiên mãi sáng trong từng thế hệ mai sau./.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Hồi ký phần 1: Dù đi muôn phương nhưng chỉ có một chốn quay về!
Hồi ký phần 2: Xứ Nghệ nơi chốn dung thân, Theo dấu người xưa tìm về Thăng Long – Cổ Pháp.
Tác giả: nghệ nhân Lý Quang Khanh (tên thật Nguyễn Quang Khanh)
Gìn giữ thanh âm di sản – Báo SGGP phỏng vấn Nguyễn Quang Khanh