Nguyễn Quang Khanh – Hành trình về nguồn cội Nhà Lý *P1

Hồi ký phần 1:  

Dù đi muôn phương nhưng chỉ có một chốn quay về!

Tác giả: nghệ nhân Lý Quang Khanh (tên thật Nguyễn Quang Khanh)

Ảnh: VTV

 Ảnh trích lấy từ nguồn VTV

“Từ lâu, trong tôi luôn canh cánh một mong muốn: được trở về tìm lại cội nguồn của dòng họ, không chỉ về lại quê cha đất tổ mà còn để thắp nén hương thành kính trước từ đường và mộ phần tổ tiên, để nối lại sợi dây vô hình đã bền bỉ chảy qua bao thế hệ”

Tuổi ấu thơ tại quê nhà Xứ Nghệ.

            Trước năm 1995, lúc tôi còn nhỏ đang ở quê nhà Thanh Chương, Nghệ An. Dưới sự nuôi dạy của cha mẹ và được nghe ông nội Nguyễn Quang Lựu dạy bảo vì nội tôi là một nhà Nho, do hoàn cảnh thời cuộc ông là một Nho sỹ (học chữ Nho, chữ Hán Nôm) không theo con đường khoa bảng. Nội đã theo chú ruột là cố Nguyễn Quang Nhị để học, cố Nhị, hiệu là Kim Trâm, đang làm quan ở huyện Hương Sơn, cụ đã nuôi nhiều người trong họ đi học, sau này cố về làm Bang Tá ở Phủ Đức Thọ, Hà Tĩnh, cố Nhị học ở Quốc Tử Giám tại Huế, cố viết bài thơ Du tử ngâm khúc để khóc vợ. ông nội học chữ Quốc Ngữ và học chữ Nho, sau đó phải bỏ học giữa chừng để về đi cày nuôi anh trai Nguyễn Quang Lý và các em ăn học. Ông Lý đã đậu bằng Diplôme d’Études Universitaires Générales (DEUG) (cao đẳng đại học) của Pháp nhưng không ra làm quan, sau cách mạng tháng tám ông được mời ra làm giáo viên. Trước kia nội đã từng dạy bình dân học vụ, tham gia dân quân hỏa tiến phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó về làm thư ký cho hợp tác xã, hội phụ lão, hội phụ huynh… vì thời đó người biết cả chữ Nho và chữ Quốc Ngữ còn ít. Bà nội là người họ Trần gốc Trần Hưng, một lần nữa trong người tôi có cái GEN của họ Lý và họ Trần.

Với kiến thức chữ Nho nên ông đã đọc gia phả của dòng họ Nguyễn Quang bằng chữ Hán Nôm. Bống một hôm ông kể cho tôi nghe về gia tộc dòng họ của mình, lúc này tôi mới lên mười tuổi. Ông nói “cháu à! Tổ Tiên ta không phải gốc họ Nguyễn” mà là gốc họ Lý ở Cổ Pháp, Bắc Ninh, con cháu của Đức vua Lý Thái Tổ. Gặp thời sa cơ họ ta suy tàn và chuyển giao cho họ Trần. Để trừ hậu họa sau này, Trần Thủ Độ đã bách hại tôn thất nhà Lý, nên con cháu nhà Lý phải chạy loạn. Sau đó Trần Thủ Độ bắt tất cả con cháu họ Lý đang lẩn trốn khắp nơi phải đổi sang họ Nguyễn. Một số con cháu nhà Lý thì trốn sang nước ngoài: Đài Loan, Trung Quốc, Cao Ly (Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc). Cũng đến lúc nhà Trần suy tàn, họ Hồ chiếm ngôi và nhà Minh sang xâm lược nước ta, họ cướp bóc, tịch thu tất cả thư khố, sách và trong đó có nhiều gia phả của các dòng họ trong cả nước, nhiều sách quý thì mang về Kim Lăng, còn các gia phả bị đốt cháy để cho con dân Đại Việt quên mất nguồn cội, một số thì người dân họ chôn cất sau bị thất lạc, một số vì thiên tai lũ lụt… Cũng chính từ đây các dòng họ của Đại Việt bị thất lạc và bị đốt hết gia phả trong đó có gia phả của dòng họ gốc Lý.

            Sau nhiều cuộc biến cố trong lịch sử tiếp theo nên Tổ ta chọn mảnh đất xứ Nhà Dương vùng Điền Lao (Lương Điền) làm chốn dung thân, còn các anh em chi phái khác thì rải khắp vùng Thanh Chương và nơi khác.

            Năm 1995 tôi vào miền nam theo chú ruột, chú Nguyễn Quang Bửu là giáo viên sử địa dạy cấp 2, bác ruột Nguyễn Quang Phúc đang công tác tại trường cấp 3 tại Định Quán, Đồng Nai, nơi đây còn có ông chú là Nguyễn Quang Đậu và Nguyễn Quang Đệ, cùng nhiều người là bà con họ tộc. Lúc này, ông nội tôi cũng đang ở miền nam. Từ đó tôi tìm đọc các sách lịch sử với mục tiêu là tìm về nguồn cội và gốc tích của tổ tiên mình. Tuy tôi yêu môn lịch sử nhưng tôi không theo học ngành khoa học xã hội và tôi chủ yếu theo học ngành khoa học tự nhiên. Đó cũng chính là thế mạnh của tôi có kiến thức tổng hợp từ bộ môn tự nhiên lẫn xã hội. Có lẽ tôi đã có một căn duyên nào đó chăng?

            Năm 2011 thì ông nội tôi cũng đã qua đời ở tuổi 86. Tôi đã mất đi một người ông đã dạy cho tôi về đạo đức, về lịch sử kể từ thời thơ ấu. Ông nội tôi là một thầy Cúng theo đúng chuẩn mực Đạo Gia Tiên (phong tục thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên). Nhờ những kiến thức từ tín ngưỡng thờ Gia Tiên, tôi hiểu đôi chút về hiệu bụt ghi trong gia phả nên tôi đã có một ý thức hệ về Tổ Tiên của người Việt với lòng tự tôn của một dân tộc.

            Sau thời gian đó tôi đi tìm Thầy học Đạo, trước kia thời sinh viên tôi đã đọc Kinh sách của Đạo Gia Tô (Ki tô giáo) để biết thêm kiến thức bên ngoài. Khi nội tôi qua đời có gửi di ảnh vào Tịnh Xã của Phật Giáo ở Định Quán mà lúc còn học sinh tôi cũng hay vào Tịnh Xã này dạo chơi và nghỉ mát. Tôi thì sinh sống và làm việc tại Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh nên thi thoảng lúc rảnh cũng hay ghé vào các Chùa chiền, tịnh xá… Từ đây tôi quy y theo Đạo Phật theo trường phái Bắc Tông, ở đây tôi cũng chưa toại nguyện và muốn đi nhiều nơi để tìm chánh pháp của Đức Phật. Trong lòng thì vẫn mong tìm về nguồn cội và may mắn thay tôi đã tìm lại được những người thầy đang tu luyện theo Đạo Tiên của người Việt cổ. Từ đó, tối kết hợp với các kinh sách của Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Bà La Môn, kiến thức lịch sử, khoa học tự nhiên… đã giúp tôi bắt đầu giác ngộ. Hiểu được tại sau Đức Phật Thích Ca thành đạo là vì Ngài cũng đi khắp nơi tầm đạo và chính ngài cũng chứng được quả Thánh, Tiên, Phật. Nhưng để giải thoát thì phải tự lực từ chính bản thân mình mới thành tựu, còn tất cả các pháp chỉ là phương tiện giúp cho mình mà thôi. Từ những phương pháp tu học – rèn luyện đã giúp tôi dần giác ngộ chân lý. Đây chính là hành trình của tôi viết về cuốn sách này bằng chính trải nghiệm từ bản thân, bằng những kiến thức tu luyện và đây cũng chính là góc nhìn của riêng tôi.

Sau nhiều năm lỡ hẹn. Mùa xuân năm Giáp Thìn (2024). Tôi quyết định khăn gói về quê hương Xứ Nghệ để thực hiện chuyến hành trình tìm về nguồn cội.

Tháng giêng về lại quê hương xứ Nghệ nhân ngày giỗ Tổ!

            Cuối năm Quý Mão, cái căn duyên như có sự thúc dục của Tổ Tiên, Vợ chồng anh Nguyễn Hữu Nghĩa và chị Minh Nguyệt hành trình từ Thăng Long Hà Nội vào nam kết nối dòng tộc. Anh Nguyễn Hữu Nghĩa (Lý Tuấn Nghĩa) từng làm biên tập viên của Đài tiếng nói Việt Nam – VOV đã xin về hưu sớm với mong muốn chăm lo việc tổ tiên. Một cuộc hội ngộ của con cháu dòng tộc Nguyễn Lý (gồm Nguyễn Tiến, Nguyễn Quang, Nguyễn Hữu) tại thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai lại làm cho tôi càng thôi thúc về nguồn cội. 

Đầu xuân năm Giáp Thìn (2024), rằm tháng giêng xong. Trong cái nắng nóng phương nam tôi rời Dĩ An, Thành phố Hồ Chí Minh trên chuyến phi cơ mang theo niềm háu hức lẫn trang nghiêm hướng về Nghệ An – vùng đất xứ Nghệ linh thiêng ghi dấu tổ tiên. Về gặp mặt mẹ cha, người thân và bà con họ tộc nhân ngày giỗ Tổ 19 tháng giêng. Về lại căn nhà của ông bà nội nơi tôi đã sinh ra và sống những ngày thơ ấu. Về để kết nối cội nguồn dòng họ, để được thắp nén hương lòng thành kính trước phần mộ ông bà, cố can, tổ tiên, để nối lại sợi dây vô hình đã bền bỉ chảy qua bao thế hệ.

Bữa cơm thân mật với những người thân trong gia đình, với sự có mặt của khách quý từ Hà Nội về đó là anh Hữu Nghĩa làm cho cha mẹ tôi rất vui mừng vì ngày lễ tết tôi không về đón tết cùng ông bà. Hôm đó có ông Nguyễn Quang Ngô, bác Nguyễn Quang Thùy, bác Nguyễn Quang Ngự, o Hòa dượng Lộc, dượng Đào, bà Chiên cháu ngoại của họ Nguyễn Quang và bố vợ tôi. Các bô lão trí thức đã chia sẻ cùng anh Nghĩa về những nốt thăng trầm của lịch sử liên quan đến dòng tộc.

Sau đó anh Nghĩa đã dẫn đoàn lên phần mộ cụ tổ Lý Lữ, để tránh sự truy tìm của Trần Thủ Độ, cụ đã chọn hành nghề đưa đò trên dòng Lam Giang không khai tên họ, nhằm mục đích thăm dò tin tức từ Triều đình. Về sau, nhà Trần bắt những ai là người họ Lý đã trốn thoát buộc phải đổi sang họ Nguyễn, các cụ trước chưa dám đổi vì vẫn phải đề phòng. Đến đời cụ Lý Lữ (Lự) mới đổi thành Nguyễn Tiến Lự. Tên thật của cụ là Lý Công mang tước Hầu nên mới gọi là Lý Công hầu. Nên các cụ về sau thường gọi họ mình là “họ Nguyễn Lý” để phân biệt các dòng họ Nguyễn khác.

Trong buổi chiều mưa phùn lất phất se lạnh của tiết khí Vũ Thủy, hòa cùng khói hương trầm xứ Nghệ. Cùng với cha tôi, với các ông, các bác cao niên thắp nén hương thơm dâng lên cụ tổ Lý Lữ và mời cụ ngày mai về từ đường đại tộc Nguyễn Quang chi Thanh Xuân dự lễ giỗ của con trai mình là Nguyễn Quang Hiển. Đứng trước mộ tổ Hầu thí thân Lý Lữ, tôi thắp nén hương tưởng niệm và bồi hồi nhớ lại ngày hè năm 1998 lần đầu tiên về thăm quê sau bao năm xa cách, cũng nhân ngày giỗ 18 tháng 5 năm ấy, cha Hiếu đưa tôi lên thăm mộ cụ và mộ của cụ tiến sỹ Nguyễn Tiến Tài.

Rời nơi đó, tôi và đoàn về lại từ đường Nguyễn Tiến tại Tiên Cầu. Chính mảnh đất này cụ tổ Lý Công đã chọn làm định cư và làm nghề đưa đò trên dòng sông Lam. Từ Đường này cũng là nơi thờ tự của tiến sỹ Nguyễn Tiến Tài. Trong không gian nhà thờ cổ kính, hương trầm lan tỏa khiến bước chân tôi chậm lại. Tôi thấy rõ hơn mạch nguồn của dân tộc, thấy bàn tay bao thế hệ đã gìn giữ hương tỏa để hôm nay con cháu có nơi trở về.

Ngôi từ đường Nguyễn Tiến, nhà thờ đã rêu phong, mái ngói âm dương cổ kính, hương khói nghi ngút. Năm 1993, Bộ văn hóa thông tin đã công nhận Nhà thờ và lăng mộ của Đô đài ngự sử, phó sứ Nguyễn Tiến Tài là di tích lịch sử cấp Quốc gia và tri ân tổ tiên họ Nguyễn gốc Lý đã sản sinh nhiều bậc anh tài cho đất nước. Bác tộc trưởng Nguyễn Hữu Chánh kể tôi nghe chuyện gìn giừ hương hỏa lâu đời, khó khăn mấy cũng không để bàn thờ nguội lạnh. Tôi lặng lẽ thắp hương, cha tôi Nguyễn Quang Hiếu xin 3 quẻ âm dương suôn sẻ, một quẻ âm, một quẻ dương và một quẻ âm dương, tôi cảm nhận rõ mạch nguồn sâu xa đang chảy qua từng thế hệ.

Trong buổi xế chiều hôm đó! Đoàn không còn thời gian để lên viếng mộ cụ Tiến sĩ Nguyễn Tiến Tài (hậu duệ Nhà Lý), ngày xưa các cụ kể lại cụ Tiến Tài hay nhắc tên cụ Quang Hiển và gọi là Tổ Thúc, chúng tôi xin cụ trong tâm thức để tiếp tục về lại xứ Nhà Dương (Lương Điền và Ngũ Cẩm) thăm mộ cụ tổ Nguyễn Quang Hiển.

Xứ Nhà Dương Nguyễn Quang Hiển chọn làm nơi lãnh nạn để dung thân

Theo gia phả ghi lại: Đời thứ nhất Thủy tổ: Nguyễn Quang Hiển, tên thường gọi Ông Hoằng tức là Lý Hoằng, ngày sinh không rõ, ngày mất 19/1 Âm lịch. Nguồn gốc và sự nghiệp theo bản gốc bằng chữ Hán Nôm: Nguyên tiền tổ là họ Lý, khi cơn bách hại của nhà Trần đã lắng dịu, con cháu nhà Lý lẩn tránh bốn phương, đổi ra họ Nguyễn. Gặp cơn loạn lạc, con cháu lại mỗi người một phương. Hồi ấy, ở vùng Võ Liệt, Thổ Hào, Bích Triều đều có chi phái họ Nguyễn. Ở Chi Nê (Thanh Chi) thì bị binh hỏa, ở Nhân Thành thì bị thất truyền, duy Chi ở thôn Lương Điền có đủ căn cứ để thuật lại. Vậy chép ra để làm cứ liệu. Vị hiệu của ngài: Thủy Tổ khảo, Nguyễn Quang Hiển, hiệu “Thụ Sơn phủ quân”.  Từ đây tôi lần theo dấu vế của lịch sử để tìm về nguồn cội. Tôi tự hỏi cụ có phải tên thật là Quang Hiển hay không? Tại sao phải chạy trốn khỏi Triều đình nhà hậu Lê về Nghệ An vào bìa rừng để sống? tại sao bao đời phong kiến không dám khai nguồn gốc dòng tộc, gia phả thì giữ cẩn mật và chỉ cho một số ít người biết? đợi đến thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghịa Việt Nam mới phổ biến con cháu được biết?…

Ngồi trên xe tôi bồi hồi nhớ lại lợi kể của cha, của ông, của cố Châu và các cụ ngày xưa, rồi xâu chuỗi lịch sử của dân tộc. mấy năm về trước cha tôi có kể lại Cụ tổ Lý Lữ tên thật là Lý Công làm nghề đưa đò trên dòng sông Lam, một hôm ông bống thấy trên rú Hà có ba con ngựa đang phi, cụ liền xem quẻ dịch và lên bờ chọn chỗ hói Nậy phát lùm lòi dựng nhà định cư làm nông nghiệp để sinh sống, nơi này cụ gọi là chốn Tiên Cầu. Thấy 3 con ngựa đang phi cụ biết sau này nơi đây sẽ phát tích con cháu sau này giỏi dang và phụng sự cho đất nước. Cụ ở với bà vợ cả đã lâu mà chưa thấy sinh con, nóng ruột vì tuổi ngày càng cao mà chưa có con để tiếp nối, Cụ lấy thêm bà kế, không lâu sau cụ bà sinh ra người con trai đặt tên là Hoằng (sau này người ta hay giọi là ông Hoằng), tên chữ thì dấu kín vì đang sống trong thời nhà Trần, tiếp đó bà cả lại sinh tiếp con trai, cụ đặt tiên Họ lót cho các con, các cháu là Nguyễn Tiến, Nguyễn Quang và Nguyễn Hữu như ba con ngựa trên rú Hà.

Thời bấy giờ Nhà Trần đã suy, họ Hồ chiếm ngôi, đất nước lòng dân không thuận, loạn nổi lên khắp nơi. Cụ Lý Công nhận thấy cơ trời đã mở lại cho con cháu họ Lý đến lúc phải về nguồn. Ông Hoằng cũng đã lớn khôn thường xuyên lui tới Thăng Long, có khi về lại Cổ Pháp để mong kết nối gia tộc, trời gian này nhiều người con mang họ Nguyễn nhưng gốc Lý cũng hay tới lui đất tổ. Nhà Minh sang xâm lược nước ta, chúng hà khắc, chèn ép nhân dân đến cùng cực, vua nhà Minh muốn cai trị Đại Việt thì phải xóa bỏ văn hóa Việt. thế là chúng đã cấu kết với những người Việt gian thu gom sách, gia phả… cái nào quý thì chúng mang về Kim Lăng bên Tàu, cái không quan trọng đối với nó thì đem đốt hết. Làm cho nhiều dòng họ từ đây mất đi sợi dây gia phả làm cho người dân quyên mất đi nguồn cội của mình.

May thay, Lê Lợi cùng các quần hùng đứng lên khởi nghĩa. Nguyễn Chích một tướng lĩnh của nghĩa quân Lam Sơn đã tham vấn cho Lê Lợi là phải đem quân vào Nghệ An bày mưu tính kế lâu dài. Nguyễn Chích cũng chính là hậu duệ thứ 12 của Lý Thái Tổ nên con cháu họ Nguyễn gốc Lý theo nghĩa quân ngày càng đông. Vào Nghệ An Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chọn vùng đất bãi ven sông Lam làm chỗ đóng quân và tập luyện. Nơi này người dân gọi là bãi Triều, chọn chỗ Cầu Kho làm chỗ lưu lương thực, Cầu Kho thuộc dãy Thiên Nhẫn dễ bề lui binh vào Đức Thọ hoặc lên miền Trà Lân… Khu vực bãi Triều có bến sông nơi đây cụ Lý Lữ (Lý Công) làm nghề đưa đò, nên ông Hoằng đã tham gia nghĩa quân Lam Sơn và lấy tên gì thì không rõ vì vẫn còn phải dấu mình không cho người ta biết là mình gốc họ Lý. Kháng chiến thành công ông ra kinh thành Thăng Long làm việc. Tiếc thay, Nguyễn Trãi bị tu di tam tộc và tiếp đó là cuộc thanh trừng của Lê Sát, ông Hoằng trốn khỏi triều đình về lại Nghệ An và chọn bìa rừng làm nơi lãnh nạn, nơi này cụ giọi là xứ Nhà Dương và đặt tên mới là Nguyễn Quang Hiển, hiệu là Thụ Sơn.

Ngày 19 tháng giêng là ngày mất của cụ, không biết cụ sống bao nhiêu tuổi. Trong buổi chiều tà của ngày 18 tháng giêng, đoàn đã đi qua nghĩa trang của đại tộc đến vườn đất bằng phẳng, nơi đây là phần mộ của cụ đã được con cháu xây lại ngôi lăng bằng đá từ ngoài Ninh Bình mang vào, Ngôi mộ giờ đây đã khang trang nhưng vẫn giỡ nét văn hoa cổ kính. Chúng tôi thắp hương lên mộ cụ và mời cụ về Lễ Tiên Thường tối nay tại Từ Đường đại tộc ở Ngũ Cẩm.

Sáng ngày hôm sau, bà con từ khắp nơi tụ về Từ Đường từ rất sớm, trời nắng ráo, thi thoảng có hạt mưa phùn lất phất, se lạnh của mùa xuân. Lần này anh Nghĩa đã dẫn đoàn gồm các chi đại tộc Nguyễn Tiến, Nguyễn Hữu, Nguyễn Trọng… đều là hậu duệ của Hầu thí thân Lý Lữ về dự lễ. Trước đây các cụ thời ông nội và cố Châu cũng đã kết nối dòng tộc và đã duy trì cho đến ngày hôm nay.  Ngày giỗ của cụ tổ Nguyễn Quang Hiển (Lý Hoằng) được tổ chức tế lễ sớm bắt đầu từ chín giờ sáng. Dành thời gian cho con cháu kết nối dòng họ. Sau sự phát biểu của hội đồng gia tộc Nguyễn Quang. Tôi đã được hội đồng gia tộc tin tưởng lo trọng trách cho cuộc tọa đàm này, Trước khi thưa chuyện với bà con họ tộc tôi chấp tay dâng nén tâm hương trước bàn thờ, lòng tôi chợt lắng lại – như thể mình vừa tìm được sợi dây nối liền với quá khứ xa xăm, tiếp đến phát biểu của bác Nguyễn Tiến Chánh (chi trưởng), Tôi và Anh Nghĩa chia sẻ làm sao để kết nối được các chi tộc họ Nguyễn gốc Lý, bác Đạt ôn lại những nốt thăng trầm của dòng họ… Một sự tiếp nối mà tôi và anh Nghĩa phải cố gắng cùng với tất cả họ tộc vun trồng để ba chi họ (3 con ngựa) mang tên Nguyễn Tiến, Nguyễn Quang và Nguyễn Hữu tiến bước vào kỷ nguyên mới.

{Hết phần 1} Mời quý vị xem tiếp!

Hồi ký phần 2: Xứ Nghệ nơi chốn dung thân, Theo dấu người xưa tìm về Thăng Long – Cổ Pháp.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Hồi ký phần 1:  Dù đi muôn phương nhưng chỉ có một chốn quay về!

Hồi ký phần 2: Xứ Nghệ nơi chốn dung thân, Theo dấu người xưa tìm về Thăng Long – Cổ Pháp.

Tác giả: nghệ nhân Lý Quang Khanh (tên thật Nguyễn Quang Khanh)

Gìn giữ thanh âm di sản – Báo SGGP phỏng vấn Nguyễn Quang Khanh

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *